UGANDA TỪ NĂM NGÀN DẶM
UGANDA TỪ NĂM NGÀN DẶM
(PHẦN I)
Nguyên
Nguyễn
(Mình
của tuổi 20 là thế này mà cũng là thế nọ, chẳng là thế này lẫn cả thế kia)
Tháng 02/2019, theo một chương trình tập huấn
về bình đẳng giới của tổ chức Lunaria (Ý) phối hợp với chương trình Eramus+ của
châu Âu, trong vai trò là người đại diện cho tổ chức Volunteer for Peace
Vietnam tham gia, tôi có cơ hội tới thăm cộng hòa Uganda, một quốc gia Đông Phi
nổi tiếng với con người thân thiện và giàu lòng nhân ái. Quốc gia ấy còn được
biết đến nhờ những tour safari đắt đỏ đến các vườn quốc gia ngắm động vật hoang
dã - điều mà hầu như ai cũng mong một lần được trải nghiệm khi đến vùng đất Phi
châu xa xôi này.
Tuy nhiên, tôi không giỏi và cũng không quá
hứng thú nói về những cảnh đẹp và những trải nghiệm du lịch đắt đỏ nhưng lại
thấy hào hứng hơn khi được chia sẻ những gì tôi thấy, nghe và học được qua
chuyến đi của mình về văn hóa, con người ở mỗi nơi tôi đi qua.
Văn hóa Coca-Cola
Khi vừa đặt chân xuống sân bay Entebbe, vào
khoảng 2 giờ rưỡi chiều, dù cho toàn thân mỏi nhừ vì ngồi trên máy bay quá lâu
và giờ giấc thì ít nhiều khác biệt, sự thích thú đón chờ những trải nghiệm mới
trước mắt khiến tôi tạm quên đi cái mệt của cơ thể.
Sân bay Entebbe là một tòa nhà màu vàng có
diện tích khiêm tốn, ít kính cửa sổ và đơn giản đến mức sơ sài, gợi cho người
ta nhiều liên tưởng về một sân bay nội địa xa xôi nào đó ở địa phương. Ấy thế
nhưng sân bay Entebbe không chỉ là sân bay quốc tế mà còn là sân bay duy nhất
trên cả lãnh thổ Uganda. Cứ thử tưởng tượng đất nước Uganda to gần bằng Việt
Nam và to gấp 4,5 lần Đài Loan thì đủ thấy di chuyển bằng máy bay là một điều
gì đó còn xa xỉ ở đây và không nhiều người sẵn sàng dùng phương tiện này. Được
biết là ở đây khi người dân muốn đi sang các nước châu Phi lân cận, họ thường
sẽ dùng xe bus mà có thể mất đến vài ngày đi đường nhưng bù lại có thể tiết
kiệm được khoản tiền kha khá.
Nói về điều làm tôi ấn tượng ở sân bay Entebbe
thì đó là các biển hiệu nước soda, nước tăng lực có mặt ở khắp mọi nơi, trong
đó nổi bật nhất dưới cái nắng vàng chói chang của xứ sở Đông Phi là màu
đỏ không thể lẫn vào đâu của Coca-Cola. Ở sân bay Entebbe có hẳn một hình mẫu
chai Coca-Cola cao ngất ngưởng gần 6 mét bên cạnh là một backdrop quảng cáo cho
một cuộc thi tài năng nào đó do Coca-Cola tài trợ. Không chỉ có vậy, thương
hiệu Coca-Cola còn có thể được bắt gặp trên các biển hiệu lớn dọc đường cao
tốc, các áp phích quảng cáo nhỏ nơi những tiệm tạp hóa xa xôi nhất, trên các xe
ô tô và mô tô chạy ngoài đường; trên mũ và quần áo của mọi người; các sạp hàng
gần bến xe hay trên tay của người bán rong ngoài phố… Dù vẫn biết Coca-Cola là
thức uống phổ biến và được đầu tư quảng cáo rộng rãi, kể cả ở Việt Nam, nhưng
tần suất xuất hiện của hãng đồ uống này ở đây không khỏi khiến người ta chú ý.
Với 2000 shilling (tương đương với 12000 VND) ai cũng có thể dễ dàng mua một
chai Coca thủy tinh 300ml dù ở bất kì hang cùng ngõ hẻm nào.
(Ảnh chụp tại sân bay
Entebbe, Uganda)
Thật không khó để thấy niềm yêu thích và sự
trung thành của người dân nơi đây dành cho Coca-Cola. Dù nơi đầu tiên ở châu
Phi mà Coca-Cola đặt chân tới không phải là Uganda mà là Cape Town, Nam Phi
nhưng đi đến đâu hãng này cũng mở rộng địa bàn hoạt động của mình và rất biết
"lấy lòng" người dân bản địa. Trong một bài báo viết năm 2018, nhân
dịp 90 năm Coca-Cola có mặt ở châu Phi, ông Maserama, một quản lý cấp cao của hãng
tại châu Phi đã chia sẻ:
“For 90 years in Africa we’ve
been part of our customer’s lives – we’ve been there with them on their first
date, to celebrate their first job offer and refresh their first football game.
We have built taps and toilets for mothers and fathers and taught their sons
and daughters how to recycle. We have empowered their aunts and sisters to
build their own businesses,”
(Tạm dịch: “Trong 90 năm hoạt
động ở châu Phi, chúng tôi đã trở thành một phần trong cuộc sống của người dân
nơi đây - chúng tôi cùng họ ăn mừng công việc đầu tiên mà họ có, tiếp sức cho
giải bóng đá đầu tiên họ chơi. Chúng tôi đã xây nhà vệ sinh cho những người cha
và những người mẹ và dạy con trai và con gái họ công việc tái chế. Chúng tôi
giúp đỡ những người phụ nữ làm kinh doanh”).
Uganda
1963
(Nguồn
ảnh: Coca-Cola Journey)
Không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của
công ty này đến cho cuộc sống của hàng triệu người dân châu Phi kể từ những
ngày đầu tiên họ đặt chân tới đây. Họ xây dựng nhà máy sản xuất, tạo ra hàng
trăm nghìn việc làm, trong đó ưu ái các hoạt động thúc đẩy bình quyền, cụ thể
là tạo cơ hội việc làm cho phụ nữ đồng đều với đàn ông. Họ mang về công nghệ
tiên tiến, đào tạo các công nhân thiếu tay nghề. Không dừng lại ở đó, Coca-Cola
không ngừng tài trợ, đầu tư, thúc đẩy các hoạt động xã hội đa dạng như các cuộc
thi âm nhạc, thể thao; các dự án cộng đồng đem lại giá trị và tác động lớn mà
nổi bật nhất là dự án RAIN (The Replenish Africa Initiative) giúp đỡ hơn 1
triệu người từ 35 quốc gia (trên tổng số 55 quốc gia châu Phi) tiếp cận với
nguồn nước sạch. Bên cạnh đó, Coca-Cola còn theo đuổi dự án tái chế bền vững,
hạn chế sử dụng chai nhựa và tái chế 100% các sản phẩm lon, chai Coca-Cola. Đó
là lý do vì sao tôi hiếm khi nhìn thấy một chai nhựa Coca-Cola nào ở Uganda.
Công ty này cũng đã ra mắt những sản phẩm giải khát phù hợp với khẩu vị địa
phương trong đó phổ biến nhất là Stoney Tangawizi (vị gừng), một thương hiệu
nước giải khát chỉ riêng có ở châu Phi.
(Ảnh chụp một bữa ăn
thường ngày của chúng tôi tại trại tập huấn với chai Stoney Tangawizi có mặt
trong mỗi bữa ăn)
Với tầm ảnh hưởng sâu rộng như vậy, đúng là
không ngạc nhiên khi người Uganda coi các sản phẩm đến từ công ty này như là
sản phẩm địa phương của mình và họ uống hàng ngày. Đi cùng với khẩu hiệu
"Coke with meals better together" (Tạm dịch: “Ăn ngon hơn cùng
Coca-Cola”), bữa ăn nào của chúng tôi ở trại tập huấn cũng được phục vụ kèm
các chai nước tăng lực của Coca-Cola.
Nhưng chính điều này, lại khiến tôi thấy buồn
nhất. Tất cả những đóng góp của Coca-Cola dù theo ý tốt đẹp nào đi chăng nữa
cũng không thiếu đi mục tiêu biến châu Phi thành thị trường nóng cho dòng nước
giải khát của mình trong bối cảnh những quốc gia phát triển như Mỹ, các nước
châu Âu, hay kể cả một vài nước châu Á bắt đầu tẩy chay các đồ uống của công ty
này. Và chắc hẳn là có những lý do thuyết phục đằng sau đó. Không khó để tìm
thấy các bài báo viết về những vấn đề thuế phức tạp liên quan tới Coca-Cola và,
điều tôi quan tâm hơn cả, là tác động không tốt tới sức khỏe khi người ta sử
dụng các sản phẩm nước tăng lực, nước giải khát từ công ty này.
Một lần tôi đi cùng Eric - người bạn đồng hành
người Uganda đến Arua, một thị trấn nhỏ phía bắc Uganda, tiếp giáp với biên
giới nước cộng hòa Congo. Arua phác lên một bức tranh đời sống đa chiều điển
hình ở quốc gia Uganda, là một thị trấn rất nhộn nhịp bởi sự đa dạng đến từ
nhiều thành phần xã hội, nơi có các bộ tộc khác nhau cùng chung sống, các dân
tị nạn từ Nam Sudan, Congo và Rwanda về đây buôn bán. Mọi thứ ở thị trấn này,
từ trạm xăng, trạm chờ xe bus, khu chợ, công viên, hàng quán đều mang không khí
của một vùng đất đang loi ngoi phát triển. Nắng ở Arua như thiêu như đốt, tôi
và Eric quyết định ghé vào một tiệm tạp hóa. Trong khi tôi chọn nước hoa quả
thì Eric lựa một chai nước tăng lực. Tôi khuyên cậu ấy không nên dùng nước tăng
lực vì nó không tốt cho sức khỏe thì cậu ấy chỉ "yea" rất đại khái và
tỏ vẻ bất lực: "But we can’t live without it, it's too hot you see, we
need more energy" (Tạm dịch: “Nhưng bọn tao không sống thiếu nó được, ở
đây quá nóng và chúng tao cần nhiều năng lượng”). Nhưng tôi nghĩ lý do mà
phần lớn mọi người khó bỏ đi thói quen uống nước tăng lực/ nước có gas là bởi
họ đã nghiện những sản phẩm này một cách vô thức. Việc đó có thể bắt nguồn từ
việc họ không có đủ kiến thức và thông tin về tác hại của việc tiêu thụ quá
thường xuyên chúng.
Tôi không lấy làm lạ khi Eric vẫn gắn bó với
loại nước uống tăng lực hằng ngày bởi cậu là dân chơi thể thao, mà những người
như cậu là đối tượng vàng cho các dòng nước tăng lực của Coca-Cola. Còn một lý
do khác mà tôi nghĩ đến, phần lớn những người dân sống ở Uganda nói chung đều
có mức thu nhập thấp. Đây là quốc gia có tỉ lệ thất nghiệp cao. Eric khẳng định
với tôi là có tới 80% người dân đang trong tình trạng thất nghiệp mà đa phần họ
đều là những người trẻ trong độ tuổi lao động. Khi có thời gian tìm hiểu kĩ
hơn, dù không chắc chắn với con số 80% kia nhưng tỉ lệ thất nghiệp cao là có
thật tại Uganda. Mà thậm chí không nghe ai nói, không cần báo đài, mắt thường
cũng có thể thấy cuộc sống ở đây rất bấp bênh và khó khăn. Quay lại vấn đề với
nước giải khát, vì tình trạng thất nghiệp, nhiều người dân sống ở mức nghèo,
đôi khi phải vật lộn với bữa ăn từng ngày nên nếu họ không có tiền để ăn no, họ
có thể mua Coca-Cola với giá 2000 shilling và dưới tác dụng của 10 thìa đường
có trong một chai coca, họ có đủ sức để vượt qua cơn đói.
Tôi muốn nhắc nhở những người bạn châu Phi về
sự độc hại của việc tiêu thụ quá thường xuyên các loại nước giải khát giá rẻ,
nước tăng lực không chỉ đến từ Coca-Cola mà còn đến từ nhiều các công ty nước
ngoài khác đang nhăm nhe tiến vào thị trường Uganda nói riêng và châu Phi nói
chung. Không nên có sự bối rối và nhầm lẫn giữa lòng biết ơn những đóng góp của
Coca-Cola và bản thân việc tiêu thụ sản phẩm đồ uống mà Coca-Cola sản xuất. Dù
Coca-Cola có vai trò quan trọng đến mấy trong các công tác xã hội thì khi bạn
tiêu thụ một chai Coca-Cola 300ml, bạn vẫn đang thải ra rác khó phân hủy, và
đưa vào cơ thể một lượng đường lớn mà có thể cơ thể không cần tới.
Và hỡi Coca-Cola, dù anh có thể không nghe
thấy tiếng nói nhỏ bé của tôi, xin đừng lợi dụng những người bạn châu Phi trước
nay vẫn luôn dành một tình cảm nồng thắm và một chỗ đứng nhất định trong trái
tim họ cho các dòng đồ uống của anh, để biến họ thành "an untapped
market" giải cứu cho những món soda mà tất cả những anh bạn lớn như Mỹ và
châu Âu đều đã lắc đầu giảm sử dụng vì tác hại quá rõ ràng của nó lên cơ thể
con người. Hãy sản xuất những đồ uống tốt lành với nhiều vitamin bởi đó là cách
chúng ta đối đãi với bạn mình!
You chocolate color (Màu sô-cô-la)
Quay lại lúc tôi mới xuống sân bay Entebbe,
tôi được dặn là sẽ có người bên tổ chức tới đón. Đó là Nathan, một người đàn
ông Uganda nhỏ bé, nổi bật bởi đôi mắt sáng long lanh như hai hồ nước trên làn
da tối màu. Anh ăn vận gọn gàng nhưng tôi có thể thấy áo của anh đã bạc màu và dù
vận một cái quần dài đen chỉnh tề song chân anh lại mang đôi xăng đan để lộ
những ngón chân bụi bặm.
Nathan thoạt đầu có vẻ là người đàn ông kiệm
lời và không quá hồ hởi (trái ngược hoàn toàn với tâm trạng của tôi lúc bấy
giờ) nhưng tôi chắc chắn anh là người dễ mến và thân thiện. Băng qua một khoảng
sân nắng gắt để đến chỗ đậu xe, tôi thấy có một nhóm nhỏ ở đây là người Trung
Quốc, và nhóm nhỏ ở kia là người Hàn Quốc, thoạt nhìn là biết ngay. Tôi đoán họ
tới đây để làm ăn vì mỗi người đều mang bên mình những thùng đồ rất to.
Chẳng lâu sau khi xe lăn bánh, tôi tự ý mở cửa
sổ xe vì thấy quá khó thở bởi không khí oi bức và ngột ngạt. Nathan liền nhắc:
"No, you can’t do that." (Tạm dịch: “Không, mày không được làm
thế”). Tôi hỏi lý do tại sao thì bị nhắc lại lần nữa "Just don’t do
that" (Tạm dịch: “Đừng làm thế”). Khi đó dù cảm thấy hết sức ngượng
ngùng và khó hiểu nhưng sau rồi, tôi mới biết lý do là để tránh nạn cướp giật
qua cửa sổ ô tô, nhất là khi trông tôi giống hệt khách du lịch không lẫn vào
đâu được.
Thấy Nathan kiệm lời nên ban đầu tôi cũng rất
tôn trọng điều đó và không bắt chuyện nhiều (sau một vài nỗ lực thất bại trước
đó). Nhưng rồi, có thể vì đường xa, có thể vì tôi quá hồ hởi, hay vì cả hai
điều đó mà chúng tôi có buổi chuyện trò hết sức thú vị về nhiều chủ đề khác
nhau.
Tôi bắt đầu gợi chuyện với Nathan bằng những
lời than thở, nào thì trời nóng, nào thị sợ muỗi đốt. Nathan chỉ cười khà khà,
thấy như thế thật là hài hước (hoặc nực cười). Tôi hỏi anh ở đây người ta có sợ
muỗi không, vì ở nước tôi người ta kháo nhau muỗi ở châu Phi nguy hiểm lắm,
mang mầm bệnh sốt rét có thể truyền sang người. Rồi tôi còn hỏi một câu hết sức
ngu ngơ, ở đây nắng chói thế này mà chẳng thấy ai che đậy khi đi ra ngoài nhỉ,
ở Việt Nam mà thế này thì ra ngoài chắc chẳng nhìn thấy mặt ai. Nathan nghe vậy
càng cười tợn, cuối cùng nói với tôi:
"You chocolate color, whatever you ask,
remember you are in Africa" (Tạm dịch: “Này người bạn mang màu sô cô
la, hỏi gì thì hỏi, đừng quên là mày đang ở châu Phi”).
Thế rồi, Nathan giải thích, ở Uganda vì muỗi
nhiều quá nên họ coi muỗi như bạn, và không phải con muỗi nào cũng là con muỗi
độc. Có rất nhiều người đã đi tiêm vắc xin nhưng cũng ngần ấy người thậm chí
nhiều hơn chẳng tiêm phòng gì hết mà cũng có sao đâu. Lại nói đến chuyện nắng
nóng ở đây, Nathan nói: "Just white, yellow and brown people like you are
affected, not us" (Tạm dịch: “Chỉ những người da trắng, vàng và nâu như
mày mới bị ảnh hưởng bởi nắng thôi, không phải chúng tao”). Tôi giải thích
thêm là không phải chuyện màu da xỉn đi là điều tôi bận tâm mà trong nắng có
tia UV độc hại có thể gây ung thư da. Nathan lại cười xòa: "We have
vaccine" (Tạm dịch:”Chúng tao có vacxin”)
Trên đường từ thành phố Entebbe tới thủ đô
Kampala, xe đi qua các đường đồi nhấp nhô lên xuống hết sức mượt mà với hai bên
là đồng cỏ xác xơ vì nắng. Trên trời có mấy con chim đại bàng bay vòng vòng,
sải đôi cánh rộng tận hưởng cái hơi hướm của tự do và hoang dã khiến lòng tôi
cũng vì thế mà đột nhiên tràn ngập hứng khởi vì biết mình đang ở vùng đất Phi
châu xa xôi. Hồi xưa nào có thể tiên đoán được một ngày tháng hai đẹp trời tôi
lại có thể một mình chu du sang tận đây, vùng đất của sa mạc, của đại bàng, của
hổ báo sư tử, tinh tinh, kỳ nhông, của những người da đen (tôi không hề có ý kỳ
thị màu da mà chỉ muốn bày tỏ sự khác biệt và lạ lẫm đầu tiên mà họ đem đến cho
tôi bởi chưa bao giờ tôi nhìn thấy nhiều người da đen đến thế trong đời). Ôi
con mắt no nê của tôi giờ lại càng tham lam hơn nữa trước cảnh đẹp và những
điều khác lạ, kỳ bí.
Miss Curvy da sáng màu
Nhớ ra chủ đề sắp tới của chương trình tập
huấn là về bình đẳng giới, tôi quyết định làm một hoạt động phỏng vấn tự phát
hết sức nghiệp dư với Nathan (mà đã không nghĩ rằng đây là một chủ đề hết sức
nhạy cảm và nếu hỏi sai người, có thể còn nguy hiểm nữa).
Đầu tiên tôi hỏi Nathan về vấn đề bình đẳng
giới trong xã hội Uganda theo góc nhìn chủ quan của anh. Anh nghĩ một lúc và
trả lời tôi rằng phụ nữ ở đây bình đẳng với đàn ông, họ có thể đi học và họ có
việc làm, họ không phải suốt ngày ở nhà chăm sóc gia đình như hồi trước. Nhưng
câu trả lời này quá chung chung và tôi cần cái gì đó cụ thể hơn. Tôi chuyển câu
hỏi của mình sang một vài khía cạnh khác mà ở đó Nathan có thể có nhiều trải
nghiệm cá nhân hơn để chia sẻ (nếu anh cởi mở để chia sẻ). Cụ thể tôi đánh vào
một số các quan điểm rất mang tính cá nhân của anh ví dụ như là:
Anh nghĩ phụ nữ phải như thế nào mới là phụ nữ
đẹp?
Với câu hỏi đã cụ thể hơn, Nathan chia sẻ rất
tự nhiên và cởi mở với tôi, mà cuối cùng những gì tôi nhớ được là như sau:
Ở đây, phụ nữ đẹp là phụ nữ có khuôn mặt đẹp.
Tôi rất tò mò, hỏi lại ngay: Như thế nào là
một khuôn mặt đẹp? Câu hỏi này với Nathan dường như rất khó trả lời, nên tôi
phải gợi ý thêm là ví dụ như ở Hàn Quốc, phụ nữ có khuôn mặt Vline, mũi cao,
mắt to, da trắng, môi hồng là đẹp. Nhưng Nathan có vẻ vẫn gặp khó khăn để tìm
một tiêu chuẩn cho cái đẹp, cuối cùng bất lực nói: "Just a beautiful
face" (Tạm dịch: “Chỉ cần đẹp là được”).
Rồi rất hứng chí, Nathan nói tiếp: "You
look at her face and then you look down. Why?. Because you want to see her
hip" (Tạm dịch: “Đầu tiên người ta nhìn mặt cô ấy rồi nhìn xuống dưới.
Tại sao?. Vì người ta muốn xem mông của cô ta”). Nói đến đây anh cười phá
lên. Tôi cũng cười hùa theo và hỏi thêm: "So the bigger, the better?"
(Tạm dịch: “Vậy mông càng to thì càng tốt?”) và nhận được câu trả lời
"Yes, yes, exactly!" (Tạm dịch: “Chính xác”).
Kể từ đó, tôi hay để ý vẻ bề ngoài của phụ nữ
ở đây, quả thực họ có vòng ba khá nổi bật, đặc biệt ở những cô gái trẻ. Tôi băn
khoăn không biết họ cũng cho đó là nét quyến rũ tự nhiên của người phụ nữ hay
cho đó là nét quyến rũ trong mắt đàn ông mà vì thế mình mới trở thành người phụ
nữ quyến rũ?
Sau này khi tham gia tập huấn về bình đẳng
giới cùng các bạn đến từ 10 quốc gia thuộc 4 châu lục khác nhau trong đó có đại
diện từ châu Phi là Kenya và Uganda, tôi được biết tới khá nhiều vấn đề liên
quan tới định kiến về cái đẹp và hậu quả đi kèm ở một số quốc gia châu Phi nói
chung. Puriti là bạn cùng phòng với tôi, đến từ Kenya, khi được hỏi về tiêu
chuẩn đẹp của người phụ nữ Kenya thời nay, cô thẳng thắn chia sẻ phụ nữ Kenya
thích có một nước da sáng màu, như da của tôi vậy (tức là không trắng bóc như
da người châu Âu mà có phần nâu sáng như người Đông Nam Á). Để có được làn da
này, các cô phải dùng mỹ phẩm bôi mặt hoặc bôi toàn thân, hoặc phải đến spa với
chi phí rất đắt đỏ để nhuộm lại da. Tôi không thể tin được! Khi nhìn thấy những
người bạn châu Phi với một vẻ ngoài rất khác biệt với mình, tôi nghĩ họ hẳn
phải có những tiêu chuẩn đẹp riêng, nhưng không, họ hoàn toàn đi theo tiêu
chuẩn đẹp kiểu châu Âu. Tức là da họ không trắng thì cũng cần phải sáng màu, mũi
phải cao và thon, tóc nâu hoặc vàng, còn người thì thanh mảnh như các cô gái
quảng cáo bikini. Tôi hỏi Puriti rằng có nhiều người phụ nữ làm vậy không, cô
bạn lắc đầu:"Not very many… It's expensive!" (Tạm dịch: “Không, vì
làm vậy tốn tiền lắm!”). Bên cạnh đó, việc làm đẹp này đem lại nhiều hệ quả
tai hại khôn lường cho làn da. Hiện nay ở một số nước châu Phi xuất hiện các
thị trường đen rao bán trôi nổi nhiều loại mỹ phẩm làm trắng da không rõ nguồn
gốc và theo Puriti: "Many people has died of bleaching their skins. It's
not safe at all..." (Tạm dịch: “Rất nhiều người đã chết vì làm trắng
da. Nó chẳng an toàn chút nào…”)
Ngoài Puriti ra, còn có Miria và Bridget, là
hai cô bạn người Uganda với làn da tối màu. Thoạt đầu họ đều có vẻ gì đó ngại
ngùng, e thẹn khi tiếp xúc với các bạn bè khác. Tôi lo lắng không biết có phải
định kiến về một tiêu chuẩn đẹp chung khiến họ tự ti trước các bạn có nước da
sáng màu hơn mình vì cho rằng đó mới là một vẻ ngoài đáng mơ ước? Tôi không bao
giờ có đủ can đảm để hỏi họ những điều này. Tôi chỉ âm thầm quan sát. Các video
âm nhạc mà tôi tình cờ xem được ở đây, các hit nhạc rap đình đám đều đến từ các
nghệ sĩ có làn da nâu sáng và thân hình nóng bỏng. Nói chung nam nữ nghệ sĩ hầu
như không có ai có làn da tối màu cả dù họ đều là người Đông Phi nơi 100% người
dân có làn da rất tối màu (theo quan sát của tôi). Dường như, một cách âm thầm
và kín đáo, làn da sáng màu không chỉ biểu trưng cho cái đẹp, mà còn là danh
vọng, địa vị, thậm chí là thành công của mỗi người.
Liên quan tới chủ đề cái đẹp này, tôi còn được
biết tới một phát ngôn rất gây tranh cãi trong xã hội Uganda lúc bấy giờ qua
chia sẻ của một người bạn cùng trại đó là:
“We have naturally endowed
nice looking women that are amazing to look at. Why don’t we use these people
as a strategy to promote our tourism industry?” (Tạm dịch: “Chúng ta có
những người phụ nữ đẹp một cách tự nhiên và ấn tượng, tại sao không biến họ
thành một chiến lược để phát triển ngành công nghiệp du lịch?”) - phát biểu
bởi Bộ trưởng bộ du lịch Uganda với báo Daily Nation.
Cụ thể hơn, theo lời bạn tôi diễn giải lại ý
của ông bộ trưởng thì "nice looking women" là những cô gái vẫn thường
được gọi là Miss Curvy với đường cong đầy đặn, vòng ba khủng, không cần phải
mảnh mai. Hiển nhiên, phát biểu trên của ngài bộ trưởng gây ra nhiều luồng dư
luận trái chiều bởi một mặt ông ta đánh vào tâm lý yếu đuối của các cô gái trẻ
Uganda cho rằng trước nay vẻ đẹp của họ không được thừa nhận và giờ đây ông
đang nỗ lực đòi lại "bình đẳng" cho họ bằng cách khẳng định rằng họ
đẹp, mà không chỉ là đẹp suông mà còn là vẻ đẹp tạo ra giá trị đong đếm được
bằng tiền (từ khách du lịch). Nhưng ở một mặt khác, cách nhìn nhận như trên của
ông về vẻ đẹp của phụ nữ Uganda như một cái kim châm vào lòng tự trọng của họ.
Họ không chỉ “được/bị” coi là những người phụ nữ đẹp mà là những món hàng đặc
sắc và lạ mắt, ngang hàng với đồ ăn, bảo tàng, và tương tự, những vật vô tri vô
giác và bị kiếm chác công khai. Tôi không thể tưởng tượng được nếu ý kiến này
của ông được ủng hộ thì sẽ lại có bao nhiêu phụ nữ ôm áp lực nặng nề đi phẫu
thuật độn mông hay dùng các loại quần độn chặt gây ra nhiều tác hại lên cơ thể
về sau mà cốt chỉ để thu hút khách du lịch qua đường.
Cũng chính phát kiến này của ngài bộ trưởng du
lịch đã cho thấy bất bình đẳng giới, định kiến giới vẫn còn là một vấn đề rất
cần được quan tâm trong xã hội Uganda ngày nay.
Hẹn hò là việc xa xỉ
Câu chuyện yêu đương của các bạn Uganda cũng
là chủ đề tôi thấy hết sức thú vị.
Ở đây người ta hẹn hò thế nào? Kết hôn ra làm
sao?
"Here, girls will go with men who have
money" (!) (Tạm dịch: “Ở đây, phụ nữ thích những người đàn ông nhiều
tiền.”)
Nathan thẳng thắn chia sẻ quan sát của mình.
Lúc này xe chúng tôi đã vào trong thành phố
với người qua lại ngày một tấp nập hơn. Giờ nhường chỗ cho những cung đường
nhấp nhô, mềm mại là những con đường có bằng nhưng không phẳng do nhiều đoạn
còn đang trong quá trình trùng tu nên có rất nhiều sỏi đá và những ổ gà ổ vịt.
Các hàng quán nối tiếp nhau chạy một hàng dài dọc hai con đường đất đá gồ ghề.
Xe chúng tôi đi qua một trường học được xây trên một gò đất cao lên tầm hai mét
so với mặt đường. Từ dưới nhìn lên, tôi thấy sân chơi của tụi trẻ với xích đu
và bập bênh. Tôi đoán đây là trường mẫu giáo hoặc trường tiểu học. Thi thoảng
tôi thấy vài ba em nhỏ mặc đồng phục, áo sơ mi trắng nhàu nhĩ, tay xách túi cặp
đi thành hàng dọc trên những gờ đường. Xe cũng đi qua một trạm xá tuềnh toàng,
một con sông yên tĩnh, một khu chợ có vẻ đông đúc, một nhà thờ cổ kính và còn
nhiều hơn thế nữa. Bức tranh cuộc sống Uganda dần hiện ra sống động bởi muôn
vàn thứ tiếng và màu sắc khác nhau, là tiếng còi xe inh ỏi của những chiếc bodaboda
bụi bặm (một dạng xe mô tô hai bánh), tiếng người ta cãi cọ mặc cả nhau ở
những khu chợ bốc mùi, những biển hiệu cổ lỗ sĩ được sơn và vẽ bằng tay xanh đỏ
tím vàng lẫn với một vài cái được in ấn hẳn hoi chỉnh tề nom rõ kì cục. Bụi đất
đỏ làm cho cái nắng nóng càng tệ hại hơn. Và hình như vào đến khu dân cư là tôi
chẳng thấy cây cối gì tuốt.
Thấy tôi im lặng, Nathan diễn giải tiếp câu
nói hãy còn dang dở của mình ban nãy rằng ở đây dù muốn kết hôn hay hẹn hò gì,
người đàn ông cũng phải thể hiện được với người phụ nữ là anh ta có tài sản, có
tiền đồ. Đó là điều đầu tiên. Nếu anh ta chẳng có gì, sẽ chẳng có cô gái nào
chấp nhận anh ta.
Tôi hỏi Nathan về hôn nhân truyền thống ở đây,
liệu có tồn tại hôn nhân sắp đặt không hay người ta có thể tự do yêu đương và
kết hôn?
Nathan khẳng định ở đây đa phần người ta tự
nguyện kết hôn, hôn nhân sắp đặt còn rất rất ít và chắc chỉ có ở những vùng hẻo
lánh mà thôi. Tuy thế, điều này chưa đủ để khẳng định rằng quan điểm về hôn
nhân của người Uganda là cởi mở và hiện đại bởi với những gì tôi được thấy và
nghe, tôi cho là vì hoàn cảnh khó khăn nên hôn nhân sắp đặt không còn đạt được
kỳ vọng của nhiều gia đình về một cuộc sống no đủ cho con cái của họ nữa, chính
bởi vậy mà khiến nhiều người phải tự lập và bươn chải sớm, kể cả trong việc tìm
người bạn đời.
Để làm cho rõ quan điểm của anh, tôi kết luận
với một sự hoài nghi to lớn: vậy ở đây, hầu hết phụ nữ kết hôn vì tiền (?!)
Thấy Nathan không nói gì, tôi đá sang chủ đề
hẹn hò.
Theo Nathan, hẹn hò là việc xa xỉ, và trong
nhiều trường hợp là không cần thiết. Nếu các cặp đôi có hẹn hò thì hai tháng đã
là quá dài rồi.
Hết sức ngạc nhiên, tôi thắc mắc là cặp đôi
hẹn hò là để tìm hiểu nhau, để vun vén tình yêu và hạnh phúc dài lâu, đây là
việc mà tôi thấy là rất quan trọng và cần đầu tư thời gian.
Nhưng trái ngược với sự sốt sắng của tôi,
Nathan chỉ đáp gọn lỏn: "Too long. Take too much time" như kiểu hẹn
hò là việc gì đó có cũng được mà không có cũng chẳng sao vậy!
Tôi hỏi anh ở độ tuổi nào thì phù hợp để kết
hôn ở Uganda?
Chẳng cần suy nghĩ gì nhiều, anh nói luôn: Ra
trường là kết hôn, không có gì làm thì sẽ kết hôn. Vì ở đây nghèo, Nathan nói,
vì họ - những người trẻ chẳng có việc gì làm sau khi ra trường.
Như đã đề cập ở trên, tình trạng thất nghiệp
là vấn đề nan giải nhất ngay lúc này ở Uganda, được phản ánh chân thực qua hơi
thở của mọi câu chuyện mà tôi được nghe tại đây. Với một đất nước nơi có tới
trên 78% dân số dưới tuổi 30, Uganda được xếp vào một trong những quốc gia có
dân số trẻ nhất thế giới và đi kèm với nó là "danh hiệu" quốc gia có
tình trạng thất nghiệp thuộc hàng cao trong các nước hạ Sahara. Để lý giải một
cách đơn giản nhất cho hiện trạng này thì có thể chỉ ra hai nguyên nhân chính
như sau: thứ nhất là sự gia tăng dân số quá nhanh ở Uganda và thứ hai là sự
thất bại trong việc cải cách kinh tế, tạo ra/ thúc đẩy các ngành nghề có thể sử
dụng tối đa nguồn nhân lực dồi dào sẵn có. Bên cạnh đó, còn là yếu tố về chất
lượng giáo dục hạn chế, chưa thu hút được đầu tư nước ngoài, và nhiều vấn đề
khác. Tôi đã có cơ hội tìm hiểu một phần rất nhỏ về nguyên nhân của gia tăng
dân số ở đây nhưng hãy để tôi kể dần trong những phần sau.
"And gals need comfort", quay lại
chia sẻ của Nathan, những cô gái sau khi kết thúc bậc học phổ thông rất ít
người tiếp tục học cao lên đại học, cao học, mà phải suy tính đến chuyện dựng
vợ gả chồng để tìm một chỗ dựa vững chắc cho mình và đôi khi còn cho cả gia
đình cô gái nữa. Dù những năm gần đây với sự khuyến khích, động viên và cả giúp
đỡ về rất nhiều mặt từ các tổ chức xã hội trong và ngoài nước, việc học trở nên
dễ tiếp cận hơn đối với các cô gái, tuy nhiên quyết định không hoàn thành việc
học ở bất kì cấp bậc nào và không học cao lên còn đến từ rất nhiều các mạng
lưới nguyên nhân khác đan xen vào nhau và bổ trợ lẫn nhau. Đó có thể là những
định kiến núp bóng dưới văn hóa các bộ lạc vẫn còn ngấm ngầm tồn tại rằng nữ
nhân thì không cần đi học, là thiếu điều kiện tài chính để theo đuổi việc học
(Uganda vẫn nằm trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới - theo World
Bank), là rào cản về ngôn ngữ (với gần 50 bộ lạc nói các thứ tiếng khác nhau),
là sự phân hóa giàu nghèo ngày một nặng nề, là tình trạng thiếu việc làm trầm
trọng và nhiều nguyên do khác nữa.
Khéo léo rút một trong những sợi chỉ đã nêu
trên ra, tôi muốn biết nhiều hơn về sự phân hóa giai tầng ở đây, một chủ đề mà
Nathan có thể có nhiều trải nghiệm thực tế. Vặn vô lăng sang một bên, xe tiến
vào một con phố tấp nập khác, nơi dọc hai bên đường vẫn là những hàng quán nhỏ
thó, những căn nhà lụp xụp một tầng, những hàng dài ma nơ canh không đầu, trắng
bóc dưới các bộ cánh sặc sỡ màu sắc. Nathan khẳng định với tôi, xã hội Uganda
cấu thành bởi 3 nhóm người rất rõ ràng, và không thể lẫn lộn: "The high
class, the medium and the poor" (Tạm dịch: “Nhóm người thượng lưu,
trung lưu và nhóm người nghèo”)
"Can you tell which class a person
belongs to if you don't know anything about him or her?" (Tạm dịch:
“Anh có thể phân biệt một người thuộc nhóm xã hội nào kể cả khi anh không biết
tí gì về thân thế người đó không?”) - tôi hỏi.
"Sure!" (Tạm dịch: “Dĩ nhiên
rồi!”)
Cách Nathan phân biệt những nhóm người này là
dựa trên quần áo họ mặc, những nơi họ tới, và đôi khi là cả nước da của họ.
Theo anh, trong nhóm người “highclass” (thượng lưu) có rất nhiều người đến từ
Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ,... và họ ở những biệt thự xa trung tâm thành phố, nằm
ở những khu ngoại ô vắng vẻ. Trên đường về thành phố, tôi cũng đã thấy vài căn
biệt thự như vậy, chúng khang trang và đẹp tối giản, tỏ bày sự kín kẽ và bất
xâm phạm, nhưng rõ ràng trông xa lạ trên mảnh đất Phi châu này nơi cỏ cây thiên
nhiên đều mang hơi thở hoang dã, nơi chim ưng và đại bàng chia sẻ chung một bầu
trời với người dân bản địa.
Câu chuyện về sự phân hóa giàu nghèo ở Uganda
mà tôi tìm hiểu được đến đây vẫn chưa hết, nhưng thời gian với Nathan đã hết,
xe đã đến nơi tập kết. Đó là một khách sạn có khuôn viên rộng và duyên dáng với
vườn cây hoa lá cách trung tâm thủ đô Kampala khoảng 3,4 cây. Bên cạnh là đại
sứ quán Mỹ và cách không xa lắm là văn phòng Liên Hợp Quốc. Một nơi có an ninh
trật tự, tôi thấy phần nào yên tâm.
Tập huấn và những người bạn
Những ngày cả đoàn mới đến, thời tiết hết sức
dễ chịu và ôn hòa. Tôi thường quen giấc dậy vào lúc 5 giờ sáng, khi tất cả vẫn
còn đang ngủ say. Lúc này có gió mát nhưng không lạnh. Ngoài trời tối om và
lặng như tờ. Tôi thường tận dụng khoảng thời gian quý báu này để viết nhật ký,
đọc sách hoặc đơn giản chỉ là nghe một bản nhạc yêu thích. Cảm thấy hết sức nhẹ
nhàng và bình yên. Tôi còn nhớ là vào ban sáng vẫn hay có tiếng đài phát ra
tiếng hát nghe có phần ai oán nhưng không não nũng, tuy chẳng hiểu lời nhưng
tôi lấy làm lạ lẫm, thú vị. Cái tiếng hát không biết từ đâu ra ấy là âm thanh
duy nhất vào buổi tờ mờ sáng nên lại càng khiến người ta tò mò, chú ý. Có thể
là giọng phụ nữ, hay giọng một người đàn ông, cứ hát đều đều như tụng kinh
khiến người ta có cảm giác như đang trong một nhà thờ nào đó dù lúc ấy thường
là tôi đang nằm cuộn tròn trong chăn, mắt mở thao láo.
Vì hầu hết thời gian trong ngày rất nắng và
nóng nên đoàn chúng tôi sinh hoạt theo thời gian của người Uganda tức là dậy
sớm, nghỉ sớm. Bữa sáng phục vụ từ 7:30 AM và các hoạt động bắt đầu 1 tiếng sau
đó. Ngày nào cũng như ngày nào, chúng tôi kín lịch từ sáng tới 6 giờ chiều với
rất nhiều nội dung hoạt động khác nhau thành thử ra chẳng có thời gian dạo chơi
ở bên ngoài. Nhưng điều đó chỉ làm tôi hơi rầu lòng vào lúc đầu, còn sau khi đã
thân quen với mọi người và các hoạt động ngày một thú vị hơn, tôi chẳng còn ý
định ra khỏi khuôn viên đó nữa.
Buổi chiều ở đây thường có nắng to mà không
nóng, gió mát như gió mùa thu. Tiếng quạ hay là tiếng của con chim mpabaana
(một loài chim quạ) đen nhánh hay bay thành đàn cứ chốc chốc lại kêu quàng
quạc. Từ xa vẫn thấy chúng đậu thành một hàng dài trên nóc nhà ai kia. Người
khách du lịch mới đến ban đầu khó ưa nổi cái tiếng quàng quạc om sòm của những
con chim mpabaana nhưng sau rồi tự anh ta lại tự nhận ra cái tiếng chim đó là
một phần của đời sống nơi đây, đã hòa vào trong mọi khoảnh khắc sinh hoạt của
người dân, quen thuộc đến mức thiếu vắng nó mới là cái điều gì bất tự nhiên,
nhưng khi có nó thì cũng chẳng nhận ra. Thậm chí khi đã đi xa, mỗi lần nhớ về
Uganda, bỗng đâm nhớ cái tiếng quàng quạc kém duyên ấy mà hồi ức không sao giúp
tôi được nghe lại.
Thời gian ở trại tập huấn tôi hay trò chuyện
với Teresa, một bà xơ có nụ cười nhân hậu. Ở cạnh bà, người ta không khỏi thấy
ấm áp và dễ chịu. Tối nào bà cũng tới phục vụ bữa ăn cho chúng tôi, nhẹ nhàng
như một bà mẹ. Tôi yêu quý bà bởi bà chẳng bao giờ nề hà chia sẻ điều gì và bà
cũng hết sức yêu quý tôi bởi tôi luôn chuyện trò và thân thiện với tất cả mọi
người. Ở cạnh bà, tôi thấy thoải mái như với một người bạn mà vẫn không đánh
mất sự kính cẩn trong lời nói, động tác để sao cho phù hợp. Có lẽ tôi giống như
một đứa trẻ của bà, không nhất thiết là một đứa con nhưng là một đứa trẻ mà bà
quan tâm.
Được biết Teresa là điều phối viên của tổ chức
Caritas Uganda và Daughters of Charity, hai tổ chức xã hội của Giáo hội công
giáo Uganda chuyên tổ chức các hoạt động từ thiện hỗ trợ cộng đồng trong đó có
hai nhóm đối tượng rất đáng quan tâm là dân tị nạn và trẻ em khuyết tật. Buổi
sáng tôi không thấy bà ở bất kì đâu trong khuôn viên trại bởi khi đó bà đang
bận bịu chuẩn bị cho lũ trẻ của bà tới trường, những đứa trẻ không phải do bà
mang nặng để đau mà có được. Theo cách nói của bà, chúng là những đứa con của
Chúa được gửi đến cho bà, và bà có nhiệm vụ chăm sóc những đứa trẻ này cho đến
ngày chúng có thể tự lập. Tôi không khỏi cảm động bởi sự thiêng liêng mà giản
dị trong công việc của bà. Bà cho tôi xem một số bức ảnh trong một buổi sinh
hoạt của những trẻ em khuyết tật, trông chúng thơ ngây và đơn giản. Trong ảnh
chúng ngồi thành vòng tròn, đứa ngồi xe lăn, đứa ngồi bệt, đứa phải bồng trên
tay còn sơ Teresa đứng ở giữa. Một phần không nhỏ trong số những trẻ em ở đây
đến từ các nước láng giềng nơi đang trải qua cuộc nội chiến kinh hoàng như Nam
Sudan, Congo hay Rwanda… Chúng đều bị lạc cha mẹ hoặc bị bỏ rơi.
Sau khi từ Uganda trở về, tôi đã xem một bộ
phim tài liệu mang tên: Mercy Killing: Uganda’s Hidden Infanticide và được biết
ở Uganda, tồn tại niềm tin rằng trẻ em khuyết tật là một điềm gở hay quả báo
cho gia đình và vì thế chúng là nỗi xấu hổ cần phải bị loại trừ. Nhiều gia đình
tan vỡ khi có những đứa trẻ không lành lặn dẫn đến việc các em hoặc bị cha mẹ
bỏ rơi hoặc luôn trong hoàn cảnh không thể tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế cần
thiết, hay bi thảm hơn, chúng bị giết âm thầm, nhất là ở những làng quê nghèo
khó.
Trong lần nói chuyện gần đây nhất giữa chúng
tôi, Teresa kể rằng bà đang tham gia vào nhóm làm workshop nâng cao nhận thức
của người dân Uganda về người tị nạn cũng như các hoạt động trực tiếp hỗ trợ
những người tị nạn khác. Bà chia sẻ Uganda là quốc gia đầu tiên mở cửa đón chào
người tị nạn từ Nam Sudan, Congo… Từ chính phủ đến người dân đều thân thiện với
nhóm người mới đến này. Ở Uganda có rất nhiều nơi ở cho người tị nạn -
không phải trại tị nạn. Ở những khu vực nói trên, người tị nạn có thể thoải mái
đi lại trong Uganda để kiếm việc làm, tiếp cận cơ hội y tế, giáo dục, về cơ bản
là không có rào cản từ chính phủ. Họ cũng được khuyến khích là tự phát triển
kinh tế ở địa phương và được hỗ trợ bởi các tổ chức xã hội trên toàn cầu, trong
đó có UNHCR (Cao Ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn). Người dân Uganda phần lớn
cũng bày tỏ sự thông cảm tới hoàn cảnh của nhóm người tị nạn và tại nhiều nơi,
họ chung sống hết sức hòa thuận. Tuy nhiên đó chỉ là một mặt của hiện trạng. Ở
một mặt khác, nhiều người Uganda có thành kiến và tỏ ra bất mãn với người tị
nạn từ Nam Sudan và Congo bởi sự bất đồng về văn hóa, ngôn ngữ; sự chênh lệch
về cơ hội, lợi ích,... dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử đôi khi rất khắc
nghiệt trong xã hội Uganda. Chính bởi thế mà workshop của Teresa hướng tới mục
tiêu tạo ra nhận thức (awareness creation) cho người dân bản địa để họ không vì
sợ hãi, ghen tị mà dẫn đến xung đột, bất hòa với người tị nạn. Bên cạnh đó, bà
còn giúp đỡ người tị nạn tìm chỗ ở vì các khu vực tị nạn/ trại tị nạn giờ đã
quá đông và tình trạng khó khăn, thiếu thốn ở nhiều mặt khiến cho những người
tị nạn tuyệt vọng phải tìm những nơi ở mới.
Tôi không có thời gian ra ngoài thường xuyên
để tìm hiểu về cuộc sống ở đây do lịch tập huấn khá kín và chặt chẽ. Tuy buổi
tối tôi thường rảnh rang nhưng vì không được khuyến khích ra ngoài vì sự an
toàn của bản thân nên tôi chỉ có thể loanh quanh trong khuôn viên trại và trò
chuyện cùng các bạn Uganda mà tôi có thể gặp. Các câu chuyện cho đến giờ mà tôi
thu thập được từ quá trình nói chuyện, cùng sống và làm việc (dù chỉ trong vỏn
vẹn 8 ngày) với các bạn ấy cũng đã cho tôi đủ chất liệu để tự mình phác lên một
bức tranh mini đen trắng về xã hội và con người Uganda.
Hãy nói tới Rose, cô nàng lễ tân mà tôi làm
quen cùng lúc với sơ Teresa vào cái chiều tôi mới đến trại. Rose khoảng hai mấy
tuổi, ít nói và rụt rè. Cô để mái tóc quăn tự nhiên như sợi mì tôm và buộc
thành một búi rất to và dày ở đằng sau gáy. Tôi nhớ là mình đã bắt chuyện với
họ (Teresa và Rose) bằng một câu hỏi ngu ngơ rất quen thuộc mỗi khi tôi muốn mở
đầu câu chuyện với ai đó, đại loại như có phải sáng Chủ Nhật này ở nhà thờ sẽ
có buổi hát thánh ca vào 9 giờ sáng không? Hay một thắc mắc gì đó tương tự. Và
cứ thế tôi nán lại hỏi hết từ điều này sang điều nọ một cách hết sức tự nhiên.
Để cuộc trò chuyện được đi sâu hơn tôi chia sẻ với họ là tôi đang viết một cuốn
sách nhỏ và nó chính là cuốn sách này đây nhưng họ ngỡ như tôi là một người
viết chuyên nghiệp chuẩn bị có sách đầu tay hay gì đó thì phải nên sau rồi họ
chia sẻ với tôi rất nhiều thứ khi tôi nói rằng mình muốn hỏi thêm đôi điều về
cuộc sống ở đây.
Thú thật là về sau tôi cũng vẫn lợi dụng sự
lầm lẫn này của mọi người để mình có thể tiếp cận được các câu chuyện của họ mà
không cảm thấy tội lỗi vì về cơ bản thì sự lầm lẫn này không hẳn là điều gì sai
sự thật. Họ thường hỏi tôi cụ thể tôi muốn viết về cái gì. Ban đầu câu hỏi này
khiến tôi rất dễ chết đứng vì đến lúc đó tôi cũng chưa biết tôi muốn viết về
cái gì. Thậm chí, lúc này, tôi muốn viết về cái gì tôi cũng chưa rõ nhưng mà vì
tôi được dạy là trong việc học viết, việc viết mới là quan trọng nên cứ viết
dàn ra đây tất cả những gì tôi có, sau này ắt có lúc tôi biết mình nên chọn lọc
khai thác hay bỏ bớt đi điều gì. Tôi thường trả lời rất đại khái là mình đang
muốn viết về tình yêu, cái đẹp và hôn nhân. Vì chẳng có một khái niệm hay nền
tảng gì cho tất cả những điều trên nên xét cho cùng khi nghe xong các câu
chuyện, tôi rất vất vả để có thể ghi nhớ chúng ở dạng nguyên bản nhất như lưu
giữ một chất liệu thô cần mang về để nghiên cứu và đối chiếu thêm.
Việc đầu tiên tôi làm là chia sẻ cho họ những
gì tôi biết được (thông qua Nathan) về những gì tôi định viết và kỳ vọng họ sẽ
là người bổ sung hoặc phản bác dựa trên những gì tôi có được. Trong buổi trò
chuyện trước với Nathan về hôn nhân, tôi có từng thắc mắc là sao ở đây người ta
kết hôn dễ dàng quá, nam giới nghe chừng chỉ cần có một người vợ xinh đẹp còn
nữ giới cần người chồng có tiền đồ, chỉ cần vậy là đã có thể về sống với nhau
cả đời mà chẳng cần hò hẹn gì cho vất vả. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ nguyên si câu
giải thích quá sức ngắn gọn của Nathan: “Here men don’t differentiate love and
excitement” và “Gals need comfort” (Tạm dịch: “Ở đây, đàn ông không phân
biệt giữa tình yêu và hưng phấn” và “Các cô gái cần sự an nhàn, thoải mái”).
Tôi hỏi Teresa, vậy hôn nhân lý tưởng ở đây
không nhất thiết phải có tình yêu?.
“That’s not true, my dear” (Tạm dịch: “Điều
đó không đúng, cô gái ạ”) - Teresa lắc đầu, bà từ tốn giải thích với tôi
rằng đó chỉ là những tín hiệu ban đầu để người nam và nữ kết đôi với nhau, sau
khi cả hai ưng thuận họ sẽ phải ngồi với nhau và bàn về cuộc sống hôn nhân họ
kỳ vọng. Nếu như không yêu nhau làm sao họ có thể cùng ngồi xuống nói về cuộc
sống sau này với những đứa con? Chắc chắn là họ yêu nhau và vì thế nên họ mới
sống cùng nhau.
Tôi hỏi trung bình một gia đình ở Uganda sẽ có
mấy đứa con, câu trả lời nhận được là 6-7 đứa trẻ là chuyện bình thường. Thấy
tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, Rose nói thậm chí còn có thể nhiều hơn. Nhưng việc dạy dỗ
và chăm sóc một đứa trẻ chẳng dễ dàng, tôi bày tỏ băn khoăn của mình thì được
Rose chia sẻ rằng họ biết đó là vấn đề “but it happens” (Tạm dịch: “nhưng nó
xảy ra như vậy, biết làm sao được”). Trẻ em ở đây nhiều như nấm, có những
đứa may mắn thì được đến trường đầy đủ nhưng chẳng thiếu gì những đứa phải ra
ngoài đường, giáp cái nắng gắt suốt cả ngày dài cùng bố hay mẹ chúng để xin
tiền người qua đường.
“Condoms are not allowed to use here”
(Không được phép dùng bao cao su)
Nhân tiện, tôi hỏi luôn về một chủ đề rất liên
quan đó là việc gia tăng dân số nhanh ở Uganda, nguyên do gì đằng sau nó. Trước
đó khi nói về vấn đề này với Nathan, tôi có phỏng đoán liệu có phải do ở đây họ
không được giáo dục về tình dục an toàn và không được phổ biến về bao cao su
thì nhận được lời giải thích hết sức bất ngờ từ anh đó là: “Condoms are not
allowed to use here” (Tạm dịch: “Không được phép dùng bao cao su”),
một khẳng định hoàn toàn trái ngược so với những gì tôi đọc được trên báo sau
đó về nỗ lực của chính phủ và các tổ chức quốc tế trong việc phổ cập bao cao su
vào Uganda. Theo Nathan, việc sinh nở là điều tự nhiên từ Chúa trời, mọi biện
pháp can thiệp để ngăn cản việc này là trái với ý của Chúa và anh là một người
Công giáo.
Đây cũng là một phần nguyên do làm đau đầu tất
cả những nhà hoạt động xã hội về HIV/AIDS ở Uganda. Được biết là thời gian qua
chính phủ đã rất nỗ lực đầu tư thời gian và công sức để phổ biến về bao cao su
cho người dân ở những nơi xa xôi nhất nhưng niềm tin tôn giáo giống như cái
chậu đất của một cái cây biểu tượng cho người tin, nuôi dưỡng người đó, muốn
chuyển cái cây sang chậu đất mới cần đủ sự khéo léo và hiểu biết. Bên cạnh
nguyên do này, còn có nhiều nguyên do khác dẫn tới việc bao cao su rất khó trở
nên thông dụng đó là thiếu thông tin về an toàn tình dục, thiếu chỉ dẫn về cách
dùng bao cao su, và cho dù được hướng dẫn nhiều người dân không đủ tầm nhận
thức về sự nguy hại (nhiều người sợ mang thai hơn là HIV/AIDS bởi mang thai thì
thấy rõ hậu quả còn HIV/AIDS chỉ là một căn bệnh “vô hình”). Tóm lại rất nhiều
rào cản tương hỗ lẫn nhau khiến cho việc sử dụng bao cao su trong hoạt động
tình dục là không phổ biến.
Teresa và Rose cũng chia sẻ điều tương tự,
rằng họ không thấy thoải mái với bao cao su.
Cuối cùng, tôi nghĩ, tội nhất là những đứa
trẻ, sinh ra trong veo và sáng ngời như một tiểu thiên thần trong các bức tranh
tôn giáo phương Tây nhưng rồi sớm gãy cánh vì thiếu sự yêu thương và quan tâm
của cha mẹ chúng nơi trần thế./
TÀI LIỆU XEM THÊM
Bài báo:
The Coca-Cola Company turns
90 in Africa | Coca-Cola Journey
Coca-Cola has discovered an untapped market to
save the soda business | Bussiness Insider
Outrage overuse of 'Miss Curvy' beauty pageant
to promote Ugandan tourism | The Guardian
The jobless generation;
tracing the root causes of Uganda’s unemployment | Sunrise Uganda
Video:
Mercy Killing: Uganda’s Hidden Infanticide |
Journeyman Pictures
Skin bleaching scandal in
South Africa | Unreported World
Comments
Post a Comment